|
  • :
  • :

Du lịch

I. CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ, VĂN HÓA

1. Các di tích lịch sử

Hiện nay trên địa bàn xã An Lão có 5 di tích lịch sử. Trong đó có 1 di tích cấp Quốc gia: Di tích Chiến thắng An Lão tại thôn Thuận An, xã An Tân (cũ) được xếp hạng ngày 18/4/2013 và 4 di tích cấp tỉnh bao gồm: Di tích lịch sử Vụ thảm sát Đá Bàn - Thôn 4, xã An Hưng (cũ); Di tích lịch sử Đài Tiếng nói Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp - Thôn 9, thị trấn An Lão (cũ); Di tích lịch sử Vụ thảm sát Giếng Đồn – Thôn Thuận an, xã An Tân (cũ); Di tích lịch sử Nơi thành lập Chi bộ Chính Nghĩa - Thôn Thuận Hòa, xã An Tân (cũ).

1.1. Di tích Chiến thắng An Lão

 Chiến thắng An Lão là nơi ghi dấu một trang sử hào hùng của miền Nam Trung Bộ trong kháng chiến chống Mỹ:

- Cuộc chiến chính thức diễn ra đêm 6–7/12/1964 khi bộ đội chủ lực của Quân khu V phối hợp bộ đội địa phương và dân quân du kích mở cuộc tấn công bất ngờ vào chi khu quận lỵ An Lão, nhanh chóng tiêu diệt địch ở các cứ điểm như Núi Một chỉ trong khoảng 1 giờ. Kết quả: giải phóng toàn bộ thung lũng An Lão (22 km), giải thoát khoảng 11.000 dân khỏi ách kìm kẹp, tiêu diệt/bắt sống ~610 tên địch, phá hủy 5 xe M113, 1 máy bay trực thăng; thu giữ 320 súng và nhiều vũ khí, đạn dược.

- Chiến dịch kéo dài đến ngày 23/12/1964 khi địch buộc phải rút lui hoàn toàn. Đây là chiến thắng mở đường cho chiến lược “Đồng khởi” tại khu vực miền Đông Nam Bộ và miền Trung, cũng là lần đầu Quân khu V triển khai thành công chiến thuật kết hợp giữa bộ đội chủ lực, địa phương và dân quân du kích.

- Chiến thắng An Lão không chỉ là thắng lợi chiến thuật quan trọng, mà còn đánh dấu bước phát triển trong tổ chức chiến tranh của Quân khu V – mở ra mô hình tác chiến tổng lực kết hợp quân chủ lực, địa phương, dân quân, binh vận và chính trị - góp phần tạo đà cho nhiều thắng lợi sau này.

- Di tích được xếp hạng cấp Quốc gia vào ngày 18/4/2013; Di tích năm trong khuôn viên rộng khoảng 1.000 m², có bia tưởng niệm, nhà ghi danh và hệ thống hạ tầng phụ trợ, do huyện An Lão đầu tư xây dựng từ 2014. Ngoài tượng đài, khu di tích còn gợi nhớ tới vụ thảm sát Giếng Đồn (1955), nơi hơn 21 chiến sĩ cách mạng và đồng bào bị sát hại, cũng đã có bia ghi danh dựng tại xã An Tân.

1.2. Di tích lịch sử Vụ thảm sát Đá Bàn

- Vụ thảm sát Đá Bàn là một sự kiện đau thương trong lịch sử địa phương, khi quân địch đã sát hại dã man nhiều chiến sĩ cách mạng và người dân vô tội. Vụ thảm sát diễn ra lúc 9h00’ ngày 21/11/1960 tại làng Đá Bàn, xã An Hưng, trong bối cảnh chiến dịch “Tố cộng – Diệt cộng” của chính quyền Mỹ – Ngô Đình Diệm. Khoảng 34 đồng bào dân tộc H’re bị giết hại một cách tàn bạo, 14 nóc nhà bị đốt rụi, tạo nên một “biển máu và căm hận” tại địa phương.

- Di tích ghi dấu sự tàn phá người dân vô tội và biểu tượng của sự hy sinh, căm phẫn đối với sự đàn áp vô nhân đạo. Việc xếp hạng di tích này nhằm mục đích tưởng nhớ, tri ân những người đã hy sinh và giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ mai sau; trở thành công cụ giáo dục lịch sử, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, đặc biệt cho thế hệ trẻ.

- Di tích được UBND tỉnh công nhận vào ngày 25/12/2013. Khu di tích hiện có bia tưởng niệm, nằm trong khu vực được bảo vệ rõ ràng theo quy chế di sản văn hóa.

1.3. Di tích lịch sử Vụ thảm sát Giếng Đồn

- Vụ thảm sát diễn ra vào tháng 8/1955 trong chiến dịch “Tố cộng – Diệt cộng” của chính quyền Mỹ – Ngô Đình Diệm. Khoảng 21 chiến sĩ cách mạng trung kiên và đồng bào yêu nước bị thủ tiêu, sau đó quân đội tay sai đã ném xác xuống giếng, tạo ra một tội ác đẫm máu, để lại nỗi đau sâu sắc cho người dân địa phương.

- Di tích lịch sử vụ thảm sát Giếng Đồn được UBND tỉnh xếp hạng ngày 25/12/2013, là một trong 6 di tích lịch sử của huyện An Lão được cấp tỉnh được công nhận. Đây là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân huyện nhà về truyền thống đấu tranh kiên cường anh dũng trong sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, giành lấy độc lập, tự do cho quê hương, đất nước; góp phần thiết thực, có hiệu quả trong việc giáo dục truyền thống cho các thế hệ hôm nay và mai sau.

1.4. Di tích lịch sử Đài Tiếng nói Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp

- Di tích lịch sử Đài Tiếng nói Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp tại Thôn 9, thị trấn An Lão là một địa điểm quan trọng, nơi từng đặt trạm phát sóng của Đài Tiếng nói Nam Bộ trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Đài này được thành lập vào ngày 1 tháng 6 năm 1946, tại đình Thọ Lộc, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, và sau đó đã chuyển địa điểm hoạt động nhiều lần, trong đó có khu vực An Lão, Bình Định.

- Trong giai đoạn kháng chiến, Đài Tiếng nói Nam Bộ đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin, cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân và chỉ đạo kháng chiến. Việc Đài đặt cơ sở tại An Lão, Bình Định, cũng như ở các địa điểm khác, đã góp phần vào thành công của cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Di tích được UBND tỉnh xếp hạng vào ngày 25/12/2013; Hiện nay, di tích này là một địa điểm giáo dục truyền thống, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về lịch sử hào hùng của dân tộc.

1.5. Di tích lịch sử Nơi thành lập Chi bộ Chính Nghĩa

- Chi bộ được thành lập vào tháng 9 năm 1946, với đồng chí Lê Kham là Bí thư, cùng các đảng viên Thái Kế Chưởng và Nguyễn Chại. Từ năm 1946 đến 1948, chi bộ phát triển nhanh chóng, tăng từ ban đầu lên 50 đảng viên, và đến năm 1949 đã có khoảng 150 đảng viên. Sau đó, Chi bộ Chính Nghĩa được chia tách thành 3 chi bộ: Thuận An, Xuân Phong và Long Khánh.

- Đây là tổ chức Đảng đầu tiên của huyện An Lão, đóng vai trò chủ lực trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng, phát triển tổ chức Đảng, củng cố chính quyền cách mạng tại địa phương. Chi bộ đã đặt nền móng cho sự hình thành của Đảng bộ huyện, với trụ sở huyện ủy đầu tiên đặt tại xã Duy Tân (An Thắng) vào năm 1947.

- Di tích được UBND tỉnh công nhận ngày 01/6/2018; hiện nay, đang lập quy hoạch để đầu tư xây dựng khu di tích, bao gồm bia tưởng niệm, khu di tích, giáo dục truyền thống và phục vụ phát triển du lịch.

2. Các sản phẩm văn hóa - nghệ thuật

   Mỗi dân tộc đang sinh sống trên địa bàn xã An Lão có một kho tàng văn hoá rất phong phú và đa dạng như: Lễ hội văn hóa, thể thao; các nghi lễ cưới, cúng làng, cúng con nước; Hát Ta lêu, Ca choi, hát ru; Nhạc cụ cồng chiêng, sáo.

Xã An Lão phần lớn 2 dân tộc kinh, H’re sinh sống. Đối với văn hóa dân tộc H’re ở xã An Lão còn được gìn giữ khá đậm nét, được thể hiện qua các lễ hội (Lễ cúng xuống đồng, cúng thần làng, Lễ cúng Mở kho lúa, mừng lúa mới, lễ rước Cồng chiêng, cúng con nước…), những điệu hát Ta lêu và Ka choi, hát mon, hát lối, hát ru, múa xoang, những nhạc cụ dân tộc như Cồng, Chiêng, đàn Tơ rưng, vin vút.., không gian thôn bản với kiến trúc nhà sàn truyền thống dân tộc. Người dân An Lão còn lưu giữ được nhiều nhạc cụ độc đáo.

- Lễ cúng xuống đồng: là một nghi lễ có ý nghĩa quan trọng trong hệ thống các nghi lễ nông nghiệp và là một phong tục độc đáo, thể hiện niềm tin và khát vọng trong sản xuất của đồng bào H’re xã An Lão: Lễ cúng xuống đồng, được tổ chức khi bước vào vụ sản xuất, trước khi cày bừa, xuống giống khoảng 3 ngày. Với mong muốn một vụ xuống đồng thành công, mưa thuận, gió hòa, đủ nước tưới tiêu, không sâu bệnh hại cây trồng.

- Lễ cúng Thần Làng: là một nghi lễ cổ truyền. Đây là lễ cúng của cộng đồng để tạ ơn yang (trời), tổ tiên, thần linh phù hộ bảo vệ dân làng. Hằng năm, vào khoảng cuối tháng 12 âm lịch; khi mùa gieo trồng, cấy hái xong, chuẩn bị cho một cái tết cổ truyền. Người H’re có tục cúng thần làng Với mục đích xin thần làng, thần núi, thần sông, thần đất đai, tổ tiên … phù hộ cho cộng đồng, cho bản làng mình một năm mới an bình, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Đồng thời, đây còn là dịp để củng cố tình đoàn kết cộng đồng và bắt đầu cho một năm lao động sản xuất.

- Lễ cúng Mở kho lúa: Diễn ra hàng năm, vào khoảng tháng 11, 12 dương lịch. Đây là một phong tục đẹp với những nghi lễ mang tính nhân văn, có tính giáo dục, thế hệ sau biết trân quý thành quả lao động của mình, giáo dục con cháu biết tôn trọng ông bà, tổ tiên. Đồng thời, là dịp để bảo tồn các giá trị văn hóa, nghệ thuật dân gian của đồng bào H’re.

- Lễ cúng cơm mới: Tổ chức vào tháng 8 âm lịch, với mong muốn tạ ơn trời đất và tổ tiên đã ban cho một mùa màng bội thu, cầu mong sức khỏe cho mọi người. 

- Các nghi lễ liên quan đến sản xuất và đời sống gia đình: Người H’re thực hiện nhiều nghi lễ cúng bái trong quá trình làm nhà, gieo cấy, thu hoạch, khi ốm đau, sinh nở, và khi có người qua đời. 

- Múa Xoang và đánh Cồng chiêng: Là những hoạt động văn nghệ không thể thiếu trong các nghi lễ và lễ hội, thể hiện tinh thần đoàn kết và bản sắc văn hóa của người H’re. 

- Hát Ta lêu và Ka choi: Là những làn điệu dân ca truyền thống, được hát trong các dịp lễ hội và sinh hoạt cộng đồng. 

* Nét đặc trưng trong văn hóa H’re:

- Trang phục: Người H’re có nghề dệt vải từ rất sớm theo cách thức cổ truyền Inđônêdiêng. Bộ dụng cụ dệt gồm que, thanh, ống rời nhau, đều làm bằng gỗ hoặc tre. Chỉ khi giăng thảm sợi để dệt, chúng mới liên kết với nhau thành một hệ thống. Hoa văn được thể hiện trên tấm vải của người H’re cũng rất đa dạng và phong phú, với các họa tiết là cảnh núi rừng, sông suối, trời mây, nương rẫy… và được thể hiện ở dạng quả trám , hình chữ nhật, hình thoi, hình vuông, đường thẳng…

Đàn ông đóng khố, mặc áo ngắn; Phụ nữ mặc váy, áo và trùm khăn, với hoa văn và màu sắc truyền thống. Người H’re thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm.

- Nhạc cụ: Cồng chiêng, đàn Ra Đong, đàn Breng, đàn Vroac, sáo, vin vút… và các loại nhạc cụ khác được sử dụng trong các lễ hội và sinh hoạt văn nghệ. 

- Nhà cửa: Đa số là nhà sàn truyền thống. Nhà sàn là một trong những nét văn hóa rất đặc trưng, là một phần bản sắc văn hóa của đồng bào H’re.

- Tín ngưỡng: Thờ đa thần, tin vào vạn vật hữu linh, và có những câu chuyện cổ (Hmon) được lưu truyền. 

3. Ẩm thực và các sản vật tự nhiên: Xã An Lão có nhiều đặc sản mang hương vị của núi rừng được nhiều người biết đến như: Rượu cần H’re, Rau ranh - ốc đá; cá niên - rau dớn, heo đen, thịt gác bếp, nhộng ong, dế, sùng đất,... và các sản phẩm như: Mật ong rừng, tiêu rừng, hồ tiêu, bưởi da xanh,…

II. CÁC THẮNG CẢNH

1. Thác Đá Ghe: Cách Trung tâm xã An Lão khoảng chừng 3 km. Nơi đây, với vẻ đẹp nguyên sơ không cảnh quan tái tạo của bàn tay con người, chưa có điểm thu hút mạnh đối với giới tham quan du lịch. Nhưng Thác Đá Ghe, có những điểm nhấn bởi còn nguyên vẹn vẻ tự nhiên hoang dã của nó, đặc biệt nhất là những bóng mát của cây rừng, những tảng đá to nhỏ nối liền nhau và dòng suối mát chảy dọc theo đường đi, qua con sông Đinh thơ mộng đổ về dòng Lại Giang hiền hòa.

Điểm thuận lợi này đã thu hút nhiều người đến đây vui chơi, nghỉ mát khi đi ngang qua, hoặc vào những ngày nghỉ cuối tuần, vào hè, dịp lễ tết… Phần lớn là người địa phương, nhưng thời gian gần đây cũng có rất nhiều người ở ngoài xã và có cả bạn bè ngoài tỉnh ghé đến Thác Đá Ghe vui chơi, nghỉ ngơi.

Hiện nay, UBND xã An Lão đang kêu gọi, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư hạ tầng phát triển du lịch và liên kết sử dụng các dịch vụ văn hóa trong du lịch, nhất là phát triển du lịch tại thác Đá Ghe.

2. Hồ Sông Vố: Cách Trung tâm xã An Lão khoảng chừng 2 km; Hồ Sông Vố vốn là hồ chứa nước của công trình thủy điện Sông Vố rồi chảy về sông An Lão.

Đứng từ đập có thể nhìn bao quát cả một vùng xanh mênh mông từ rừng tự nhiên và rừng trồng xung quanh hồ. Không gian vùng lòng hồ lúc sáng sớm và chiều muộn phủ mờ hơi sương se lạnh; tiếng nước reo róc rách xuyên qua hàng trăm gộp đá khuất lấp dưới những tán cây hoa dại của núi rừng tạo thành một không gian kỳ ảo. Điểm nhấn độc đáo là ngay chính thân đập những làn nước trắng xóa đỗ xuống dòng sông như một làn mây mềm mại xen lẫn tiếng nước hùng hồn tràn đầy năng lượng.

Nếu dành thời gian đi bộ ngược về phía thượng nguồn khoảng 3 km bạn sẽ đến suối Nước Lan và suối Nước Thét, buông cần bên lòng hồ để câu cá. Cá câu được, nhóm lửa lên nướng cùng nhau thưởng thức, nhâm nhi chén rượu cay nồng giữa không gian lồng lộng gió của núi rừng. Một ngày đông trôi qua ở An Lão như vậy thật sự là một trải nghiệm thú vị.

Một số hình ảnh 

1

2

3

4

5

6

6

6

7

 

 

Các chỉ số Các chỉ số

Tin nổi bật Tin nổi bật

noData
Không có dữ liệu